So sánh các sản phẩm quỹ cơ bản với sản phẩm tiết kiệm của Ngân hàng
Hiện tại ở Việt Nam có 2 loại quỹ mở cơ bản là: quỹ trái phiếu và quỹ cổ phiếu. Để có những quyết định đầu tư vào quỹ mở nào thì phù hợp, bạn cần nắm rõ đặc điểm của từng loại.
Đặc điểm của quỹ cổ phiếu là tính biến động thường xuyên cùng với khả năng sinh lời hay rủi ro khá cao. Có thể lấy ví dụ từ năm 2013 – một trong những năm thành công của thị trường cổ phiếu, lãi suất cổ phiếu xấp xỉ 26% (giai đoạn này nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi, thị trường sôi động).
Nói về quỹ trái phiếu, tại thị trường Việt Nam, có thể hiểu nôm na sản phẩm của quỹ trái phiếu là là một kênh đầu tư thay thế cho kênh gửi tiết kiệm ngân hàng. Do lãi suất mang lại cho Nhà đầu tư thường khá tương đồng nhau nên các nhà đầu tư cá nhân trước đây chưa mấy mặn mà với quỹ trái phiếu. Ở thị trường các nước phát triển, quỹ trái phiếu thường sinh lợi tốt hơn so với Ngân hàng. Sự khác biệt này có hai nguyên nhân chính. Bên cạnh việc các Ngân hàng thường “chào bán” các sản phẩm tiết kiệm với lãi suất khá cao như đã đề cập trong bài trước, còn một nguyên nhân thứ hai đó là chính sách của Nhà nước Việt Nam hiện tại còn phần nào hạn chế sự đa dạng của các tài sản mà Quỹ Trái phiếu có thể đầu tư. Tại các nước phát triển, chính sách khá linh hoạt, Trái phiếu doanh nghiệp có thể tham gia vào thị trường quỹ mở để huy động vốn. Nhưng ở Việt Nam hiện nay phần nhiều Trái phiếu doanh nghiệp chưa đáp ứng đủ yêu cầu của Nhà nước để được đưa vào thị trường quỹ mở. Do đó, nhà đầu tư hiện chưa có nhiều lựa chọn. Tuy nhiên thời gian gần đây, lãi suất tiết kiệm bắt đầu hạ nhiệt nhanh chóng, cụ thể lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 6 tháng của các ngân hàng hiện nay chỉ ở khoảng 4.96% – 5.64%/năm, khiến các nhà đầu tư bắt đầu lo lắng và rục rịch chuyển sang các kênh đầu tư khác. Cùng thời điểm đó, lợi nhuận trung bình của các sản phẩm quỹ đang tăng trưởng khá tốt, điển hình có các sản phẩm được quản lý bởi các công ty uy tín trên thị trường như Vinawealth, mang lại lợi nhuận hấp dẫn cho nhà đầu tư ở mức 9%/năm. Đây là một dấu hiệu đáng mừng cho sự phát triển của thị trường quỹ mở trong thời gian tới.
Điểm lại, yếu tố quyết định trong việc sở hữu các sản phẩm tài chính hiện nay chủ yếu vẫn là lãi suất (“giá” của khoản vốn cho vay). Vì vậy, sản phẩm nào có “giá”, lãi suất hấp dẫn hơn thì sẽ thu hút được sự quan tâm của người đầu tư hơn. Kết quả là, vào những thời điểm thị trường cổ phiếu sôi động, giá cổ phiếu tăng trưởng đều và mạnh thì các quỹ cổ phiếu có sức hút rất lớn đối với nhà đầu tư nhờ khả năng sinh lợi cao, điển hình là giai đoạn tháng 10, 11 năm 2014. Vào những thời điểm đó các quỹ trái phiếu chững lại do lợi suất không hấp dẫn như cổ phiếu. Đến giai đoạn, từ đầu năm 2015 đến nay, khi thị trường cổ phiếu không mấy khả quan thì lúc này quỹ trái phiếu lại trở nên hấp dẫn hơn. Những ví dụ trên cho thấy tâm lý của nhà đầu tư cá nhân Việt Nam vẫn còn phụ thuộc nhiều vào sự biến động của nền kinh tế hay thị trường cổ phiếu. Về lý tưởng, để đạt được mức sinh lời ổn định trong dài hạn và giảm thiểu rủi ro, lời khuyên cho các nhà đầu tư là nên có sự pha trộn giữa cả quỹ trái phiếu và quỹ cổ phiếu cũng như giữ vững danh mục đầu tư của mình trong lâu dài.
So sánh quỹ mở và bảo hiểm đầu tư?
Bảo hiểm đầu tư là một hình thức ủy thác đầu tư đã rất phổ biến trên thế giới, tuy nhiên ở Việt Nam vẫn còn rất mới mẻ. Đánh đổi giữa hiệu suất sinh lời và rủi ro luôn là vấn đề khiến các nhà đầu tư không chuyện phải trăn trở. Tuy nhiên sự kết hợp hoàn hảo giữa bảo hiểm và đầu tư đã đáp ứng được tâm lý mong muốn được lợi suất sinh lời tốt mà vẫn an toàn của các nhà đầu tư.
Nhìn lại diễn biến lãi suất các tháng qua, hầu hết các ngân hàng đều đang hạ lãi suất huy động liên tục và khá nhiều so với các tháng đầu năm. Điều này tác động đến tâm lý các nhà đầu tư cá nhân: họ e ngại về những khoản tiết kiệm ngân hàng không còn mang lại lợi nhuận tốt như trước đây. Do đó xu hướng rút tiền từ ngân hàng để chuyển sang các kênh đầu tư khác là tất yếu. Lúc này câu hỏi đặt ra là nên lựa chọn kênh đầu tư hiệu quả nào: bất động sản, ngoại tệ, quỹ hay bảo hiểm đầu tư. So với các kênh đầu tư đã quá quen thuộc với người Việt Nam thì quỹ đầu tư và bảo hiểm đầu tư đều là hai hình thức còn khá mới trên thị trường nhưng lại chứa các yếu tố khá hấp dẫn về lợi nhuận và mức độ rủi ro thấp hơn một số hình thức khác. Tuy nhiên, liệu bảo hiểm đầu tư có phải là lựa chọn tối ưu đối với những nhà đầu tư mong muốn có khoản lợi nhuận cao trong dài hạn hay Quỹ đầu tư sẽ là lựa chọn tốt hơn? Quan sát bảng dưới đây để hiểu rõ hơn về sự khác biệt giữa đầu tư quỹ và bảo hiểm đầu tư:
Quỹ cổ phiếu/ quỹ trái phiếu | Sản phẩm bảo hiểm kết hợp đầu tư | |
Mục đích | Mục đích chính: Đầu tư sinh lợi cho khách hàng. | Mục đích chính: Bảo hiểm cho khách hàng. Mục đích phụ: đầu tư sinh lợi. |
Lợi suất | Biến động theo thị trường (thông thường cao hơn lợi suất Ngân hàng và Bảo hiểm). + Trái phiếu quỹ: xấp xỉ hoặc nhỉnh hơn lợi suất Ngân hàng. + Cổ phiếu quỹ: biến động. Nhưng lợi suất thông thường vẫn cao hơn Ngân hàng do được quản lý bởi các nhà quản lý quỹ chuyên nghiệp. |
3-5%/năm |
Sản phẩm đầu tư | Đầu tư vào nhiều sản phẩm khác nhau: trái phiếu chính phủ, cổ phiếu các công ty trên sàn… | Trái phiếu chính phủ hay Quỹ trái phiếu |
Kết quả của việc đầu tư | Nhận lợi nhuận hàng năm. | + Nếu khách hàng không qua đời/thương tật vĩnh viễn đến hết kỳ hạn: nhận lại tổng số tiền đã nộp vào cùng với lãi suất 3-5%. + Nếu khách hàng qua đời hoặc thương tật vĩnh viễn trong thời gian hợp đồng: nhận số tiền bảo hiểm đã ký trong hợp đồng. |
Tính miễn trừ lạm phát | Có | Có |
Mức độ phổ biến | Mức độ phổ biến hiện chưa cao. Do: + Sản phẩm còn mới. Các nhà đầu tư còn chưa hiểu rõ và e ngại. + Chưa có nhiều chính sách hỗ trợ của Chính phủ khuyến khích sản phẩm phát triển đa dạng hơn + Tâm lý đầu tư của người Việt Nam: ngắn hạn và e ngại sự minh bạch tài chính. |
Phổ biến hơn một chút so với Quỹ mở. Do: + Xuất hiện sớm thời điểm thị trường còn ít sản phẩm đầu tư, nên thu hút các nhà đầu tư cá nhân. + Các đại lý bảo hiểm có độ bao phủ cao và đội ngũ bán hàng lớn + Đánh đúng tâm lý của khách hàng – an toàn và sinh lợi: khách hàng nếu bị thương tật vĩnh viễn/qua đời trong thời gian đóng bảo hiểm vẫn không mất tiền và được đền bù. Ngược lại vẫn được hoàn lại tiền kèm lãi suất. |
Từ bảng trên, có thể thấy mỗi phương thức đầu tư đều có những ưu và nhược điểm riêng. Nhà đầu tư cần cân nhắc giữa nhu cầu cá nhân và đặc điểm của hai hình thức để lựa chọn hình thức đầu tư thích hợp, đặc biệt không nên đi theo xu hướng đám đông trong đầu tư. Bảo hiểm đầu tư có thể phù hợp với các nhà đầu tư không chuyên nhờ mức độ rủi ro thấp nhưng vẫn sinh lời. Nhưng đối với những nhà đầu tư có chút máu phiêu lưu và kiến thức nhất định về đầu tư cũng như tham vọng lãi suất tốt trong dài hạn thì Quỹ đầu tư chắc chắn là một lựa chọn tuyệt vời.
Nguyễn Thái Thuận